[Hoàn, Cổ Đại Việt Nam] Nghĩa Đá Vàng – II. Nghĩa – Đọc Truyện Đam Mỹ Hoàn​

[Hoàn, Cổ Đại Việt Nam] Nghĩa Đá Vàng - II. Nghĩa

Tư thích buổi ngày vì ngày là quãng hắn bán buôn, theo thầy dựng gầy cơ nghiệp, và Tư cũng thích đêm. Cũng như thích buổi ngày, cái sự thích ban đêm ấy không phải là lẽ dĩ ngẫu. Đêm thanh vắng, là lúc để hắn thảnh thơi mà trừu tính con đường trước mặt. Còn một nguyên do nữa, hắn thích đêm vì đêm có Hoài, yên lặng và dịu ngoan.

Đêm trao Hoài cho hắn. Thị thường rúc vào lòng hắn say ngủ, cho dẫu lắm khi cái say khiến nước mắt thị đầm đìa, ướt gối, ướt áo, ướt cả lòng cuồng si giai nhân một thời của Tư. Thường thường hắn sẽ âm thầm vươn tay ôm lấy thị, tựa vào nhau mà ngủ, yên bình, hòa hợp đến độ như chưa từng có cự tuyệt, ép uổng và trái ngang.

Nhưng đêm nay Tư không đủ sức để ôm thị nữa. Hắn ngồi trước án thư, trên bàn là ngọn đèn leo lét cháy sắp đủ bốn canh và tờ giấy kín chữ. Lại là thư thôi vợ. Hắn viết rồi nhưng không đọc lại, khéo cũng chẳng dám đưa cho thị. Hắn hèn yếu quá, lại còn ích kỷ hẹp hòi, từ đầu đã thế. Hắn vì tư tâm mà cuốn duyên tơ của thị vào cảnh trái ngang, cũng đốt luôn duyên mình, lòng mình ra tro ra bụi. Chừng khi rệu rã, hắn muốn giải thoát nhưng lại không đủ can đảm buông tay thị.

Chữ yêu là liều độc dược. Nhỡ nuốt rồi hắn mặc sức mà hèn hạ, dại khờ, mà cuồng điên và cam nguyện chịu giày vò chứ nhất quyết không chịu nhổ ra.

Ừ mà bảo nhổ, biết nhổ đàng nào cho sạch lòng sạch dạ như thuở ban đầu?

Một lần nữa, lá thư thứ năm được hắn gấp lại, miết phẳng rồi giấu vào chiếc hòm con đặt dưới cùng giá gỗ. Hắn thổi đèn trở về giường, tần ngần ôm người đàn bà nhỏ thó mà lớn tựa biển trời ấy vào lòng, vẫn hi vọng canh giờ cuối cùng dài ra thêm một ít.

Độ ấy, mây vẫn là mây, trôi về phía xa, về chốn sẵn biết là vô định. Độ ấy, gió vẫn là gió, thổi đi muôn phương, đến nơi sẵn biết là hư vô. Nhưng sang thu trời bắt đầu đổ sương. Có lẽ vì vậy mà trời buồn, dù cái màu thẳm xanh Tư hằng ưa thích ấy vẫn trải ra khôn cùng. Hoặc vì lẽ khác, rằng hắn phát hiện thị cười nhiều hơn nét cười trống rỗng khuôn sáo, và rằng, lòng hắn thế mà lại rạo rực vì nụ cười ban phát kia. Đáng thương biết bao.

Nhưng xưa nay ngày vui ngắn chẳng tày gang, huống hồ ngày của hắn từ đầu đã chẳng vui vẻ gì, nên chút hoan hỉ vụng dại ấy cũng bay biến. Đợt ấy lũ về, ruộng đồng ngập trong con nước, mùa màng hư hoại. Nước rút, nắng như thiêu, hạn hán nối gót ùa về, đất đai khô cằn nứt nẻ. Mất mùa luôn dẫn theo đói kém xuống nhân gian ra mắt người ta, đẩy người ta từ bế tắc vào chỗ cùng túng, tuyệt vọng.

Chiến tranh phía nam kéo dài đã một năm, hai bên giằng co mãi chưa thấy hồi kết. Tráng đinh trong vùng vì dăm đồng cho thân nhân mà lũ lượt kéo nhau nam tiến. Thưa bóng người, làng trên xóm dưới tiêu điều, xơ xác. Hai mùa liên tiếp thất bát, đói ăn, có những nhà giàu lại càng giàu vì được thời, hết ép giá thóc lại cho vay lãi cao. Cũng có những nhà từ khá giả mà suýt lâm vào cảnh khốn đốn, lụn bại vì từ tâm của gia chủ, như nhà họ Đỗ của Tư.

Lần trước rồi lần này cũng thế, trong lúc chờ cứu tế từ triều đình, thầy hắn cùng vài người nữa mở kho phát thóc cho dân, được bao nhiêu hay bấy nhiều. Gạo thóc vơi nhanh đến đáng sợ, mà đói thì vẫn hoàn đói. Đói ăn, người trên kẻ dưới có đến mấy chục cứ thế mà gầy gò, xanh bủng, thi nhau bệnh đến bệnh đi.

Đang có 0 bình luận
Image

Lời bình luận giới hạn từ 15 đến 500 kí tự.